Nghe Dư Hạm nói như vậy, Thanh Duy lấy làm hoang mang.

Sao lại lắm ma thế?

Nàng hỏi: “Vậy rốt cuộc chuyện ma giết người là như thế nào?”

Dư Hạm là người chỉ theo ý mình, mấy năm nay còn được Huyện lão gia chiều hư, đâu phải ai hỏi gì nàng ta cũng trả lời. Nhưng Thanh Duy thì khác, nàng ấy dám đuổi theo cả ma cơ mà, Dư Hạm phục!

Dư Hạm híp mắt cười, “Dưới bếp có mứt hoa quả, cô ăn không, ta sai người đem lên nhé?”

Thanh Duy lắc đầu.

Dư Hạm bèn dặn: “Tú nhi, đem mứt lên đây.” Nàng liếc Thanh Duy, giũ khăn lụa, xoay người rời khỏi nhà chính, “Đi theo ta, ta sẽ kể cô nghe đầu đuôi câu chuyện.”

***

“Chuyện này nhé, phải nói từ đầu cơ.”

Vào phòng mình, Dư Hạm ngồi xuống trước gương, kéo dài con chữ như đang hát.

“Thượng Khê này ấy, núi đã nhiều lại còn bị cô lập, hồi trước nghèo lắm, người dân ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, rơi vào đường cùng thì phải làm sao đây? Lên rừng làm cướp thôi. Lúc ấy Thượng Khê đã xuất hiện một người như vậy, hắn tên là Cảnh Thường. Cha mẹ mất sớm, ngày trẻ sống nhờ ăn cắp ăn trộm. Triều đại Hàm Hòa thế đạo loạn lạc, hắn mới nói với dân chúng Thượng Khê lầm than rằng, chỉ cần mọi người bằng lòng theo hắn lên núi, hắn đảm bảo sau này mọi người sẽ không còn đói nghèo nữa.”

Lúc ấy thực sự có không ít người đã tin hắn, đi theo hắn, đầu tiên là chiếm đoạt từng sơn trại lẻ tẻ ở núi Trúc Cố, kế đó lên núi dựng trại của riêng mình, một thời gian sau cũng dần dà nên hồn.

“Cảnh Thường này có cái danh cướp của giàu chia cho người nghèo. Mà vào thời điểm nghèo khổ, cướp của giàu chia cho người nghèo là gì? Chính là cướp của hộ dư thừa lương thực. Có điều hắn có một điểm tốt, đó là tuy cướp của người ta nhưng vẫn để lại ít lương thực, hơn nữa hắn rất có đầu óc, sang triều đại Chiêu Hóa, cuộc sống ngày một tốt đẹp đi lên, hắn không làm công việc đó nữa, từ cướp người biến thành cướp đường.”

Núi Trúc Cố nằm ở vị trí rất tốt, dưới chân núi có đoạn đường mà thương gia tiêu cục thường lui tới. Cảnh Thường dẫn người chặn đường cướp của nhưng vẫn có chừng mực

, ban đầu là cướp hàng hóa, quen với thương nhân thì thu ít bạc lộ phí, đến lúc thân thiết hơn là thỉnh thoảng hắn lại vung tay cho miễn lộ phí.

Dư Hạm bảo: “Con người ấy, hèn lắm! Ban đầu hắn cướp hàng hóa của anh, anh hận hắn nghiến răng nghiến lợi, về sau hắn không cướp hàng của anh nữa, nói tạo thuận lợi cho anh, chỉ thu chút lộ phí, anh lại cảm thấy hắn cũng không đến nỗi đáng ghét, sau đó hắn không thu tiền của anh nữa, còn nói gì mà ‘lộ phí lần này, coi như ta cho các ngươi mua rượu’, hoặc là ‘kinh thương cũng chẳng dễ dàng, coi như hôm nay ta không thấy các ngươi đi qua con đường này’, lúc đó anh lại thấy hắn không những không xấu mà còn là người tốt!”

Hơn nữa Cảnh Thường có tính hào sảng, kết bạn với ai cũng rất ăn ý, dần dà, hắn chẳng những không bị các thương nhân qua đường căm hận mà còn kết giao tình với không ít thương nhân vùng Lăng Xuyên.

Nạn cướp bóc ở Lăng Xuyên đã tồn tại từ lâu, nay diệt được phía Đông Sơn thì mai lại nhảy ra Tây Sơn, không khác gì cỏ dại mọc trên núi, lửa rừng thiêu chẳng đặng, gió thổi mầm đến lại sinh sôi.

Cảnh Thường của núi Trúc Cố cũng giống như thế, quan phủ cũng nhắm một mắt mở một mắt.

Triều đình thực sự hạ lệnh tiêu diệt thổ phỉ là vào lúc nào?

Là năm Chiêu Hóa thứ mười hai.

Đầu năm Chiêu Hóa thứ mười hai, triều đình quyết định xây dựng Tiển Khâm Đài. Vì Chiêu Hóa đế rất coi trọng công trình đó, gần như là ưu tiên hàng đầu của cả vương triều lúc bấy giờ. Tiển Khâm Đài được xây tại Lăng Xuyên, đương nhiên triều đình sẽ tiêu diệt thổ phỉ địa phương.

Nói là tiêu diệt song không có nghĩa là tàn sát.

Chiêu Hóa đế là vị quân vương chăm lo việc nước, mạnh tay với giặc, nhưng mềm mỏng trong việc trị thế.

Nên triều đình vẫn chủ trương thuyết phục quy hàng.

“Nhưng thuyết phục thì có tác dụng gì?” Dư Hạm vừa soi gương vừa tháo bông tai, đoạn xoay lại nhìn Thanh Duy, “Huyện lão gia chỗ bọn ta khá thân với Cảnh Thường núi Trúc Cố, cái hồi ta chưa làm lẽ của oan gia, có mấy lần gánh hát bọn ta được mời lên núi biểu diễn, ta còn thấy ông ấy đến uống rượu mà. Bảo lão khuyên Cảnh Thường á? Khéo chỉ hai ba ly rượu là Cảnh Thường đã chặn được lão rồi.”

Thanh Duy hỏi: “Huyện lệnh núi Trúc Cố hồi ấy là người bây giờ à?”

“Đương nhiên rồi.” Dư Hạm nói, “Có ai thèm đến làm quan ở cái chốn khỉ ho cò gáy này đâu? Chỉ có oan gia của ta thôi.”

Chuyện sau đó xảy ra lúc nào?

Dư Hạm không nhớ rõ lắm, chỉ nhớ sau khi Tiển Khâm Đài sập, cả Lăng Xuyên rơi vào hoang mang loạn lạc, đại quân triều đình kéo tới, nạn cướp bóc hoành hành tứ phía, chỉ trong một thời gian ngắn mà như quay về thời Hàm Hòa loạn lạc, thậm chí tới cả Thượng Khê cô lập cũng bàng hoàng.

“Thượng Khê dù nghèo nhưng cũng có thương hộ kiếm sống nhờ núi rừng. Một hôm nọ, có một thương nhân họ Tưởng hốt hoảng chạy đến nha huyện tố cáo – nhà bọn họ kinh doanh cái gì thì ta quên rồi – nói chung khai là bọn họ chở hơn hai mươi rương hàng đến Đông An, vừa tới chân núi Trúc Cố thì bị Cảnh Thường dẫn người cướp sạch, không những cướp của mà còn giết người!”

Nghe đến đây, Thanh Duy cau mày nói: “Chẳng phải cô bảo Cảnh Thường này ra tay có chừng mực, không làm hại tính mạng người ta cơ mà?”

“Lại thế, nên mới bảo là ly kỳ.” Dư Hạm nói, “Nhưng chuyện gì cũng có ngoại lệ, sơn tặc là cướp, lẽ nào cô còn trông mong bọn họ giống Nhạc thị núi Bách Dương? Cướp muốn sống thì kiểu gì cũng phải hại người, hồi ấy loạn dữ lắm, giết vài người cũng dễ hiểu.”

“Quan phủ nửa tin nửa ngờ, đang định điều tra thì,” Dư Hạm xòe hai tay, “Lại xảy ra chuyện.”

Cảnh Thường có một người anh em kết nghĩa tên là Khấu Hoán Sơn, là Nhị đương gia núi Trúc cố. Thương nhân họ Tưởng báo quan chưa đến một ngày, gã Khấu Hoán Sơn đã dẫn mười mấy sơn tặc xuống núi, cướp liền ba nhà, còn giết người nữa.

Chuyện như thế tái diễn, quan phủ không thể khoanh tay ngồi yên được nữa, thêm cả triều đình đã muốn dẹp loạn từ lâu, trong thời gian xây dựng Tiển Khâm Đài có cả quân lính đóng quân ngoài núi. Huyện lão gia thấy có người chết, sợ lại xảy ra loạn, lập tức thúc ngựa chiến đến bản doanh cách đó mấy chục dặm, báo cáo sự việc với tướng lĩnh.

Thế là tướng lĩnh dẫn quân hộc tốc chạy về ngay trong đêm, lên núi trừ loạn.

“Giết người tàn nhẫn lắm! Nửa đêm rồi mà vẫn nghe thấy tiếng gào khóc thảm thiết, có người ở gần to gan, ló đầu ra ngoài cửa sổ nhìn, nói cả ngọn núi Trúc Cố đỏ loét, máu nhuộm đỏ lòm!”

Tuy Cảnh Thường rất được chào đón trên núi Trúc Cố, nhưng thuộc hạ của hắn cũng chỉ khoảng chừng mấy trăm người, toàn là tặc khấu, nào đấu nổi quân lính triều đình được huấn luyện bài bản.

Từ khi thương nhân họ Tưởng báo quan cho tới lúc Nhị đương gia xuống núi cướp bóc, rồi nha huyện đến bản doanh báo án, cuối cùng quân đội chạy tới, tổng cộng chỉ mất một ngày.

Sau ngày hôm đó, trời sáng choang, trên núi Trúc Cố không còn sơn tặc nữa.

“Người bị giết sạch, thi thể chất đống, bị thiêu đốt cùng sơn trại.” Dư Hạm nói, “Chuyện diễn ra quá mức đột ngột, ai ai cũng bàng hoàng, thậm chí có người còn thương xót cho toán sơn tặc ấy. Nhưng quan phủ bảo là, sơn tặc đáng thương, vậy những người bị sơn tặc giết thì không đáng thương ư? Bọn chúng đã phạm tội giết người, chắc chắn về sau sẽ còn hành động liều lĩnh hơn, trong huyện có biết bao nhiêu người, không lẽ sau này muốn ngày ngày sống trong lo lắng đề phòng, chực chờ bị bọn sơn tặc hung ác giết chết? Không phải quan phủ chưa cho bọn chúng cơ hội. Ngẫm nghĩ lời ấy, ta cảm thấy quan phủ nói cũng có lý.”

“Nhưng ta thấy có lý chưa chắc người khác đã thấy vậy. Không lâu sau khi lính triều đình rút lui, núi Trúc Cố có ma ám. Cái con mặc áo xám mà tối qua cô đuổi theo đó, người trong huyện đồn rằng nó là oan hồn của sơn tặc núi Trúc Cố đã chết, còn có người bảo…” Nói đến đây, Dư Hạm hạ giọng, đưa tay che miệng thì thầm với Thanh Duy, “Có người nói, thực ra cái chết của sơn tặc núi Trúc Cố có liên quan đến Tiển Khâm Đài.”

Thanh Duy giật mình, “Sao lại nói thế?”

“Không biết nữa. Nhưng ta đoán nhé…” Dư Hạm thần bí nói, “Tại người chết dưới Tiển Khâm Đài oan quá, muốn hồi hồn thì phải kéo hồn sống ở dương gian tới thế vào, nên triều đình giết toán cướp là muốn Diêm vương sửa lại sổ sinh tử, lấy mạng đổi mạng, cho những người chết dưới Tiển Khâm Đài được quay về dương gian.”

Thanh Duy: “…”

Thôi bỏ đi, xem ra nàng ta không biết thật.

“Ơ kia, cô không biết à?” Dư Hạm vui vẻ nói, “Ta có thể được gả cho Huyện lão gia làm lẽ là nhờ triều đình tiêu diệt đám sơn tặc này đấy. Không còn sơn tặc, gánh hát kinh doanh ế ẩm, không nuôi nổi nhiều người, ông chủ mới bán ta đi. Kết quả cô đoán xem? Ngay từ hồi Cảnh Thường mời gánh hát lên núi biểu diễn, Huyện lão gia đã nhắm trúng ta rồi. Oan gia này nghe tin ta bị bán, tức tốc cầm tiền đến chuộc ta. Phu nhân ông ấy khinh ta, không cho ta vào cửa, thế là ông ấy tìm cho ta ngôi nhà này, còn phái Tú nhi đến phục vụ ta nữa.”

Nói đoạn, nàng ta vỗ trán bảo: “Ây da, nói tận đẩu tận đâu rồi. Con người ta ngoài biểu diễn thì chỉ thích tán dóc thôi, chúng ta nói đến đâu rồi nhỉ? À, ma giết người. Sao cô không nhắc ta?”

Thanh Duy nói: “Không sao, cô nói tiếp đi.”

“Lúc nãy nói đến đâu rồi? À, trong huyện có ma quỷ lộng hành. Vì con ma mặc áo xám quấy nhiễu, quan phủ chắc chắn phải đi bắt, nhưng mà á, không bắt được.”

Thanh Duy khẽ nhíu mày, “Không bắt được?” Rõ ràng con ma kia là người, cớ gì lại không bắt được?

“Nó biến mất rồi. Quan binh tìm kiếm tất cả mọi nơi từ trên đỉnh xuống dưới chân núi, nhưng vẫn tìm không thấy.” Dư Hạm nói, “Ma mà, có phải người tự do đâu, toàn là tay sai của Diêm Vương thôi, không chừng Diêm Vương có công chuyện nên đã gọi bọn chúng về rồi, đợi xong chuyện là bọn chúng sẽ lại ngoi lên đi loanh quanh thôi. Nên mấy năm qua ma quỷ có biến mất hoàn toàn đâu, từng xuất hiện mấy lần, lần nào cũng tụ tập xung quanh mộ phần, cô xem cái bóng xám kia đi, chẳng phải biến mất ngay lập tức à.”

Thanh Duy nói: “Nếu mấy năm qua chỉ có một con ma áo xám đó, vậy tại sao bây giờ ở Thượng Khê lại có nhiều ma đến thế?”

“Ta chịu thôi. Có thể âm phủ đã đổi thời, Diêm Vương hiện tại chỉ là một kẻ tầm thường, không thích làm chính sự nên cho tháng cô hồn tới sớm hơn chăng?” Dư Hạm nói, “Tháng cô hồn đến sớm, ma quỷ đều ra ngoài hết còn gì. Thượng Khê là chốn tụ tập nhiều oan hồn, là đất “thiêng” gọi ma tới, nửa tháng trước có mấy người đến quan phủ báo án, nói gặp ma trong núi, con ma mặc đồ đỏ toàn thân, dáng vẻ ghê rợn đáng sợ, không tới một ngày thì trong huyện có người chết, tử trạng thảm lắm, ai cũng bảo là ma giết. Rồi cả công tử ma kia nữa…”

Dư Hạm dịch lại gần, nhỏ giọng hỏi: “Ta nghe Tú nhi nói, mọi người đi đường tắt trong núi để về Thượng Khê phải không? Cô có biết tại sao có trạm kiểm soát ở con đường đó không?”

Thanh Duy không đáp, đợi nàng ta nói tiếp.

“Chuyện là mấy hôm trước, có người Thượng Khê lên núi về nhà, người đó mới đi đường tắt cho nhanh, giữa chừng gặp được một vị công tử, hỏi người đó đường vào Thượng Khê. Vị công tử ấy, nói thế nào nhỉ? Cho dù đã đã mũ mạng che mặt, nhưng nghe bảo chỉ cần nhìn dáng nghe giọng, chắc chắn đó là tiên nhân hạ phàm, cả thế gian này tìm không ra người thứ hai. Hắn cho người dân ít tiền, nhờ người kia dẫn mình vào Thượng Khê, người kia đồng ý ngay, ai dè vừa ra khỏi đường tắt, vừa xoay người lại thì không thấy bóng dáng vị công tử đó đâu nữa, người kia tìm hoài không ra, cô nói xem chuyện này có ly kỳ không? Người dân đó cũng ngạc nhiên lắm! Hắn ta về đến nhà, nghe nói gần đây có ma quỷ xuất hiện ở Thượng Khê, càng nghĩ càng bất an, hôm sau bèn đến quan phủ báo án, nói giữa đêm gặp được một công tử ma trên núi, đảo mắt cái đã biến mất. Quan phủ tiếp nhận vụ án này, cho nên mới thiết trạm kiểm soát ở đầu đường.”

Thanh Duy hỏi: “Sao cô biết được chuyện này?”

Dư Hạm đắc ý: “Oan gia nhà ta nói cho ta biết. Phu nhân của oan gia nhà ta là con cọp cái, ở phủ chịu đựng dữ lắm, nên có chuyện gì cũng thích kể ta nghe.”

Nói đến đây, Dư Hạm lấy làm tiếc rẻ: “Sao tối qua không phải là công tử ma tìm đến cửa kia chứ? Cô nói đi, có khi nào hắn ta không phải ma mà là hồ yêu biến thân không, nếu không việc gì phải che kín mặt? Nghe kể đồng tử của hồ yêu khác người thường, nhìn vào là thấy dị dạng, mà nhìn lâu còn bị hớp hồn phách, bị mê hoặc cám dỗ. Nếu thực sự là công tử ma, ta chắc chắn sẽ đá bay oan gia nhà ta đi, tối nay mở rộng cửa phòng, vén rèm giường chờ hắn đến!”